Định hướng phát triển công nghệ trong công nghiệp than
Mười năm qua, nhờ chú trọng đổi mới công nghệ trong khai thác, sàng tuyển than, đổi mới tổ chức và quản lý theo cơ chế mới do Đảng và Nhà nước ban hành, sản lượng than tiêu thụ đã tăng từ 6,0 triệu tấn năm 1994 lên 18,8 triệu tấn năm 2003. Nhận thức sâu sắc rằng khoa học, công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp Tổng công ty Than Việt Nam đã chú trọng đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong công nghiệp than. Dưới đây xin nêu một số hướng chính. 1. Đổi mới công nghệ trong thăm dò, khai thác, sàng tuyển than 1.1. Trong thăm dò than - Trong thăm dò than: sử dụng công nghệ địa chấn, công nghệ khoan hiện đại vừa lấy mẫu than, mẫu đá vừa phân tích được mẫu nước, mẫu khí. - Trong lập bản đồ: sử dụng công nghệ trắc địa ảnh hàng không để chụp ảnh vùng mỏ, vẽ bản đồ (đang thực hiện năm 2004), công nghiệp GPS để đo vẽ cập nhật tại mỏ. - Sử dụng công nghệ địa thống kê để tính toán trữ lượng, xây dựng cơ sở dữ liệu địa chất (để làm từ 1997). 1.2. Trong khai thác than hầm lò Hướng chủ đạo là đẩy mạnh cơ giới hoá quá trình đào chống lò khai thông, mở vỉa, lò chuẩn bị sản xuất và cơ giới hoá đồng bộ trong khai thác lò chợ. - Trong đào chống: (1) áp dụng đồng bộ thiết bị khoan, xúc, vận tải trong đào lò đá theo phương châm "khoan sâu bắn nặng" hoặc (2) sử dụng máy liên hợp đào lò đá (AM - 75, AM - 100) với dây chuyền vận tải đồng bộ, (3) sử dụng máy đào lò liên hợp (AM - 45, AM - 50) với dây chuyền vận tải đồng bộ, (4) bắt buộc sử dụng vì neo, bê tông phun trong các đường lò đá mà điều kiện địa chất và điều kiện mỏ - kỹ thuật cho phép: sử dụng vì neo trong các đường lò than mà điều kiện cho phép. - Trong các lò khai thác: + Sử dụng cột thuỷ lực đơn đi cùng khoan nổ mìn hoặc máy khấu liên hợp trong các vỉa than dày đến 2,5m; độ dốc đến 35o, công suất lò chợ 100 - 150 ngàn tấn/năm. + Sử dụng giá thuỷ lực di động trong các vỉa than dày trên 2,5m có độ dốc đến 45o theo cách chia lớp dọc (có thể chia 2 lớp khấu trong vỉa dày đến 15m) hoặc chia lớp ngang nghiêng (ở các vỉa dày dốc), công suất lò chợ 150 - 300 ngàn tấn/năm. + Sử dụng hệ thống khai thác cơ giới đồng bộ trong lò chợ (dàn chống tự hành, máy khấu liên hợp, vận tải liên tục) trong các vỉa dày 1,5 - 7,0 m (có thể dày hơn) với công suất lò chợ 300 - 1000 ngàn tấn/năm. + Sử dụng thuốc nổ nhũ tương an toàn đối với khi nổ và bụi nổ. + Sử dụng hệ thống tự động cảnh báo khí mêtan, công nghệ tháo khí mêtan (Mạo Khê) và khoan thăm dò đi trước (tháo khí, tháo nước). 1.3. Trong khai thác than lộ thiên - Hướng chính trong khai thác than lộ thiên là (1) sử dụng đồng bộ ôtô, máy xúc lớn (ô tô 50 - 100 tấn hoặc lớn hơn) thay thế dần ô tô - máy xúc cỡ nhỏ, (2) sử dụng máy cày ủi công suất lớn (D10R ở Núi Béo) thay thế một phần công tác khoan nổ mìn và tạo ra mặt tầng phẳng hơn, (3) khoan xoay cầu đường kính 200 - 300 mm tốc độ cao kết hợp với các khoan có đường kính nhỏ hơn, (4) sử dụng máy xúc thuỷ lực cùng xe lúc lắc (khung mềm) để đào sâu đáy mỏ, chỉ bóc tách than khỏi vỉa bằng máy xúc thuỷ lực gàu ngược (vỉa mỏng đên 0,3 m(, (5) sử dụng thiết bị hiện đại làm đường mỏ, (6) sử dụng bơm bùn đặt trực tiếp dưới đáy moong (Hà Tu), (7) sử dụng thuốc nổ ANFO và nhũ tương để nâng cao hiệu quả và giảm thiểu ô nhiễm. - Bên cạnh định hướng trên đã triển khai nghiên cứu sử dụng bãi thải trong, bãi thải tạm thời - luân chuyển trong lòng moong, sử dụng trục tải ở các mỏ xuống sâu (giảm bớt cung độ vận chuyển đất, than). 1.4. Trong sàng tuyển than Nhu cầu sử dụng than cục, than cám tốt (1,2) đang tăng cao do đó chủ trương của Tổng công ty Than là nâng cao hiệu quả của ba nhà máy tuyển hiện có, xây dựng thêm ba nhà máy tuyển mới (Uông Bí, Khe Chàm, Lép Mỹ) với công nghệ hiện đại để đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng và nâng cao giá trị hòn than. 1.5. Trong xử lý nước thải mỏ Áp dụng công nghệ tiên tiến để xử lý nước thải mỏ thành nước công nghiệp và/hoặc nước sinh hoạt. 2. Đổi mới cơ chế quản lý công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới Tổng công ty Than vừa ban hành quy chế mới (thay quy chế cũ) theo hướng khuyến khích tối đa các hoạt động nghiên cứu khoa học, áp dụng công nghệ tiên tiến; gắn kết các cơ quan nghiên cứu khoa học với các đơn vị sản xuất; sử dụng hợp lý, có hiệu quả Quỹ nghiên cứu khoa học theo phương thức có vay - có trả. Viện Khoa học Công nghệ Mỏ đã lập kế hoạch chuyển đổi thành doanh nghiệp khoa học - công nghệ. Đổi mới công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, áp dụng công nghệ mới là một trong những ưu tiên hàng đầu của Tổng công ty Than Việt Nam, động lực quan trọng thúc đẩy tăng năng suất, tăng sản lượng và đặc biệt là tăng mức độ an toàn và cải thiện môi trường. (Nguồn: KHCN Mỏ)
|
0 Comments:
Post a Comment
<< Home